Hiển thị các bài đăng có nhãn bản năng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn bản năng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 24 tháng 11, 2008

Thuyết Tiến hóa rộng (gà gáy điểm canh)

Hồi xưa, cách nay không lâu lắm, ông bà mình đâu có xài đồng hồ dây cót hay đồng hồ điện tử như bây giờ, cái đồng hồ mà ông bà xài chính là con gà trống. Lúc đó, một ngày có 24 tiếng đồng hồ như ngày nay được người xưa chia thành 12 giờ tương ứng với 12 con giáp:
giờ Tí (tương đương khoảng từ 23g đêm hôm trước đến 1g sáng hôm sau),
giờ Sửu (tương đương từ 1g đến 3g),
giờ Dần (từ 3g đến 5g),
giờ Mẹo (5g – 7g),
giờ Thìn (7g – 9g),
giờ Tỵ (9g – 11g),
giờ Ngọ (11g – 13g),
giờ Mùi (13g – 15g),
giờ Thân (15g – 17g),
giờ Dậu (17g – 19g),
giờ Tuất (19g – 21g),
giờ Hợi (21g – 23g).
Trong đó, giờ Tuất, giờ Hợi, giờ Tí, giờ Sửu, giờ Dần là các giờ ban đêm. Mà ban đêm cần phải có tuần tra canh gác để bảo vệ cộng đồng làng xã nên các quan phụ mẫu xưa gọi giờ Tuất là canh một, giờ Hợi là canh hai, giờ Tí là canh ba, giờ Sửu là canh tư, giờ Dần là canh năm, đầu mỗi canh sẽ có người gõ mõ hoặc gõ trống để điểm canh.
Trong tiếng Việt ngày nay, chúng ta còn nghe những thành ngữ như: “giờ Tí canh ba” nghĩa là khoảng nửa đêm về sáng, “gà gáy canh năm” hay “gà gáy sáng” là lúc mọi người lục tục thức dậy thổi bếp lửa nấu cơm nước chuẩn bị cho một ngày làm việc, “tiếng gà trưa” là hình ảnh quê hương yên tĩnh thanh bình, “gió mùa thu mẹ ru con ngủ, năm canh dài mẹ thức đủ vừa năm” là sự thao thức của người mẹ lo lắng chăm sóc cho đứa con của mình được ngon giấc, “canh bốn, canh năm vừa chợp mắt, sao vàng năm cánh mộng hồn quanh” là sự trằn trọc khôn nguôi của một vị lãnh tụ canh cánh nỗi lòng lo cho quê hương xứ sở. Ở mỗi thời khắc chứa chan tình thương yêu hay thấm đẫm mồ hôi lao động, các vị tiền nhân luôn có một người bạn bên mình, đó chính là tiếng gà gáy điểm canh. Có mặt khắp mọi nơi, tự nhiên không gò ép, tiếng gà gáy luôn nhắc nhở mọi người rằng thời gian đang trôi, hãy cố giữ nhịp điệu của mình và hoàn thành những dự định còn dang dở.
Theo những người sống ở vùng quê mà tôi được biết, gà trống có thể gáy nhiều lần trong ngày, vào giữa mỗi giờ con giáp, nhưng thường xuyên đều đặn nhất là gáy vào giữa giờ Tí (12g khuya) và giữa giờ Dần (4g sáng). Theo thuyết Tiến hóa đang được chấp nhận và được giảng dạy rộng rãi thì gà gáy sáng là một tập tính bẩm sinh, được hình thành từ một chuỗi các phản xạ không điều kiện, nhằm trả lời các kích thích của môi trường bên trong lẫn bên ngoài cơ thể. Tập tính này được xếp cùng một loại với tập tính bú mẹ của các loài thú, tập tính làm tổ ấp trứng của các loài chim, tập tính giăng tơ của các loài nhện,… Như vậy, kế thừa Darwin, chúng ta có thể hiểu tập tính gáy của mỗi con gà trống không phải do học hỏi được từ gà trống cha, mà xuất phát từ các kích thích bên trong cơ thể (bản năng) và các kích thích bên ngoài của môi trường sống. Có nghĩa là, gà gáy do cơ thể con gà (dưới tác động của ánh sáng, nhiệt độ hay một yếu tố nào đó liên quan đến mặt trời hay sự chuyển dịch thời gian giữa ngày và đêm) đòi hỏi nó phải gáy. Như vậy, dưới ánh sáng khoa học của nền sinh học hiện đại, tập tính gà gáy vẫn còn rất nhiều điểm mù mờ chưa được soi rọi, chúng ta còn phải tự hỏi nhiều câu hỏi như:
_ Kích thích bên trong (hay là bản năng) đòi hỏi gà trống phải gáy có ý nghĩa gì? Không giống với các tập tính bú mẹ của các loài thú, làm tổ ấp trứng của các loài chim hay giăng tơ của các loài nhện, tập tính gáy sáng của gà trống không có vẻ gì liên quan trực tiếp đến sự sống còn của loài gà trong tự nhiên. Cá thể thú sơ sinh nếu không bú được sẽ bị chết, cá thể chim nếu không làm tổ ấp trứng được thì không thể duy trì được nòi giống, cá thể nhện không giăng tơ được thì không kiếm được cái ăn. Dưới áp lực của chọn lọc tự nhiên, loài thú không bú mẹ hay loài chim không làm tổ ấp trứng hay loài nhện không giăng tơ sẽ bị tiêu diệt và tuyệt chủng. Vậy liệu có chăng khả năng nếu không gáy đều đặn mỗi ngày vào lúc 12g đêm và 4g sáng, thì những con gà trống kia không thể giao phối với gà mái để duy trì nòi giống? Nếu nói rằng loài gà cũng giống như loài chim, gáy để quyến rủ con mái hay xác định chủ quyền lãnh thổ, thì làm sao giải thích được việc gà trống gáy vào đúng nửa đêm? Lúc đó, mắt mũi kèm nhèm của loài gà đâu có cho phép nó có khả năng chiến đấu hay ân ái gì?
_ Tại sao gà trống lại có khả năng gáy chính xác vào những khoảng thời gian xác định? Cơ quan nào của loài gà có khả năng đếm nhịp thời gian, hay là cảm nhận được sự thay đổi nhiệt độ, hay là cảm nhận được sự thay đổi ánh sáng, hay là cảm nhận được sự thay đổi tương đối vị trí giữa mặt trời và trái đất?
_ Trải qua quá trình tiến hóa, loài gà đã hình thành nên tập tính gáy cho gà trống như thế nào? Quá trình hình thành nên tập tính này có liên quan đến “chọn lọc tự nhiên” không? Nếu có thì cách thức chọn lọc là như thế nào? Nếu không thì nguyên nhân nào đã hình thành ở gà tập tính gáy sáng? Tập tính gáy sáng được hình thành cùng một lúc với quá trình hình thành loài gà, hay đã có lúc loài gà không biết gáy?
_ …
Để có căn cứ đưa ra câu trả lời của mình, tôi đã tìm kiếm và chú ý đến các thông tin sau:
_ Gà gáy điểm canh được là những loài gà có sự khác nhau rất rõ ràng giữa gà trống và gà mái: cao to, có cựa, mồng thấy rõ, lông rực rỡ, tướng oai vệ. Ở những loài gà này, tập tính sinh sản không bao giờ là “một chồng, một vợ, khỏi sợ si đa” mà luôn là một gà trống chăm lo cho nhiều gà mái.
_ Đặc điểm gáy của gà là không dùng dây thanh quản rung động như chúng ta mà là cho không khí thoát khỏi cổ họng theo kiểu còi tu huýt hay ống sáo. Gà điều chỉnh được việc cho âm lên cao hay xuống thấp (ò, ó, o) là do thu hẹp hay mở rộng vùng cổ này ra.
_ “Gà tức nhau tiếng gáy” tức là trong phạm vi một vùng nào đó có nhiều con gà trống, thì khi có một con cất tiếng lên là thế nào các con còn lại cũng đua nhau gáy theo.
Dựa trên những dữ liệu ít ỏi trên, tôi sẽ cố gắng phân tích và đưa ra giả thuyết đầu tiên của tôi giải đáp cho các câu hỏi thuộc vấn đề “gà gáy điểm canh”. Những gì tôi viết sau đây chỉ là giả thiết của cá nhân tôi, chưa hề được kiểm chứng và cũng chưa hề được công nhận ở bất kỳ nơi đâu.
Vào thời kỳ khủng long ngự trị trên Trái đất, vì vỏ trái đất chưa nguội đi nhiều và các lục địa chưa được hình thành một cách ổn định, các kiến tạo địa chất vẫn còn đang diễn ra rất sôi động, các núi cao và các khe vực sâu được hình thành và phá bỏ một cách thường xuyên với tốc độ nhanh hơn bây giờ rất nhiều. Lúc đó, mối đe dọa đối với các loài không phải đến từ các loài thuộc mắt xích bên trên của chuỗi thức ăn, mà đến từ thế giới phi sinh vật: động đất, núi lửa phun, đá bay, khí độc, cuồng phong, bão tố, sóng thần, lũ lụt,… Do đó, trình độ thích nghi của các loài chủ yếu chỉ ở mức phù hợp với môi trường cảnh quan, chưa có nhiều khả năng thích nghi phù hợp với môi trường sinh giới. Có nghĩa là, vào thời điểm đó, để sống còn, các loài sinh vật không giỏi tấn công vào các loài khác và cũng không giỏi phòng thủ hay tự vệ trước các loài khác, mà phải giỏi chịu đòn, giỏi hứng chịu sự huấn luyện đến khổ nhục của bà mẹ tự nhiên. Điều này sẽ giải thích được tại sao lúc đó trong các động vật thì các “đồng chí” bự con lại chiếm ưu thế đến như vậy, nên chúng ta mới gọi các “đồng chí” ấy là “khủng long” tức là những con vật khác thường (long) và khổng lồ (khủng). Theo suy luận chưa được rõ ràng của tôi thì thời này còn có một số đặc điểm khác: những con khủng long chẳng những to lớn mà còn sống lâu nữa (có thể hơn một trăm năm hay vài trăm năm cũng không chừng) do chúng chưa phải chịu một áp lực nào đòi hỏi phải giới hạn tuổi thọ lại, cơ thể sống của chúng chưa được lập trình cho cái chết mà chỉ làm nhiệm vụ sống đến khi nào bị ngoại cảnh giết chết đi thôi, có con sống sót tới thời Hùng vương lận (lịch sử của chúng ta có mô tả các loài thủy quái như giao long, thuồng luồng); môi trường lúc đó cũng rất giàu can-xi nên hễ con nào có xương là con đó bự; động vật đã phát triển rất phong phú, ngoài khủng long còn có những loài động vật không to lớn, cả trên cạn lẫn trong lòng đại dương.
Trong suốt thời kỳ đó, lần đầu tiên, dưới áp lực của chọn lọc tự nhiên, trong các loài động vật đã xuất hiện trào lưu thích nghi với âm thanh: cảm nhận được âm thanh và phát ra âm thanh. Các loài động vật nhỏ bé hơn khủng long không có khả năng chịu đòn tốt như khủng long, đã bắt buộc phải phát triển khả năng cảm nhận các chấn động lan truyền trong không khí như là các cảnh báo sớm cho các mối nguy hại đến từ những hiện tượng tự nhiên (vốn rất ồn ào) nói trên. Do đó, ở các loài này đã có sự hình thành màng nhĩ và các cơ quan thính giác. Tuổi thọ ngắn của các loài này đã giúp tiến trình thích nghi với âm thanh của chúng được tiến hành nhanh hơn loài khủng long, do đó khi mà loài khủng long bắt đầu có những tiến bộ đầu tiên về thính giác và bắt đầu có khả năng nhận biết nguy hiểm bằng âm thanh, thì những động vật nhỏ bé kia đã phát triển trước một bước: tạo ra âm thanh. Sau một lần ách xì hay ho hen (hay một cái gì đại loại thế, tương tự thế), những cá thể thông minh nhất của loài thú và loài gà tiền sử chợt nhận thấy những ông tướng bành ki, vốn thường xuyên tranh chấp thức ăn với mình, đang ở gần mình bỗng nhiên bỏ đi. Thế là các cá thể đó cố gắng lập lại hành động tống không khí thoát khỏi cổ họng của mình đó, để tạo ra âm thanh, và để bảo vệ nguồn thức ăn của mình. Qua quá trình chọn lọc tự nhiên, sự sống đã ưu tiên cho những kẻ mồm to nhất, khiến khả năng rống hay gáy của các loài dần dần phát triển. Sau một thời gian, khi mà bà mẹ thiên nhiên đã trở nên dịu dàng hơn, khả năng chịu đòn của các loài khủng long đã không còn lợi thế vượt trội trong quá trình sinh tồn, trong khi nguồn thức ăn lại bị cạnh tranh gay gắt (bị các loài nhỏ hơn chiếm đoạt do tạo ra được những “tiếng động khủng khiếp” đối với loài khủng long), đồng thời nhiều cá thể khủng long cũng bị các loài chim thú dồn ép đến mức căng thẳng quá mà chết. Đó chính là quá trình làm tuyệt chủng loài khủng long, hết sức từ từ chứ không đột ngột như thuyết thiên thạch rơi, núi lửa phun khí độc hay dung nham chảy tràn lan. Như vậy, với thuyết của mình, tôi cho rằng khủng long không thể tuyệt chủng do các lý do thiên thạch, núi lửa hay dung nham (mà trái lại chịu đựng những thứ đó vốn là sở trường của chúng) mà chính là sự ổn định hơn của một thời kỳ mới trên trái đất đã tiêu diệt các loài khủng long.
Trong số các hậu duệ của loài thú thời đó, bây giờ ta vẫn còn thấy sư tử rống, cọp gầm, sói tru, và người thét. Còn hậu duệ của gà tiền sử chính là gà viễn đông (sau này lan truyền ra cả thế giới), mỗi ngày cất cao tiếng gáy để xua đuổi những kẻ ỷ lại sức mạnh bản thân nhưng đầu óc lại ngu si mông muội…Các vấn đề về tập tính gáy sáng sẽ được giải thích trong bài viết tiếp theo, dựa trên các giả định về hoàn cảnh hình thành tiếng gáy của loài gà được đưa ra trong bài này.

Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2008

Thuyết Tiến hóa rộng (đặt vấn đề)


Chúng ta hãy tóm tắt lại nội dung thuyết Tiến hóa của Darwin. Ông quan sát thế giới sinh vật và nhận thấy rằng một số loài, khi một cộng đồng nhỏ sống biệt lập trong một không gian địa lý bị giới hạn, thì cộng đồng đó sẽ dần dần mang những đặc tính thích nghi với không gian địa lý mà chúng sống. Trải qua nhiều thế hệ, sự thay đổi chậm chạp đó có được qua sự thích nghi sống còn của các cá thể với môi trường sống. Nói cách khác, các cá thể có những biến dị phù hợp với điều kiện môi trường sẽ sống sót tốt hơn và có nhiều hậu duệ hơn, còn các cá thể không mang những đặc điểm phù hợp đó sẽ dễ bị tiêu diệt hơn và có ít hậu duệ hơn, sau một thời gian đủ dài cộng đồng loài biệt lập đó sẽ hầu như chỉ bao gồm các cá thể thích nghi với môi trường sống mới. Darwin gọi quá trình như vậy là quá trình tiến hóa theo phương thức “chọn lọc tự nhiên”. Nhờ có chọn lọc tự nhiên mà trật tự tự nhiên luôn thay đổi không ngừng nhưng lại được sắp xếp đâu vào đấy, và thế giới sinh vật ngày càng trở nên đa dạng hơn.
Thực tế sau khi ông mất, chúng ta đã kiểm chứng được việc luôn luôn có những loài mới được tạo ra và những loài cũ bị tuyệt chủng. Trong chuyên ngành siêu vi khuẩn, chúng ta đã biết đến việc vi rút H5N1 làm cả thế giới lo lắng về khả năng biến đổi từ môi trường sống trên gà, sang môi trường sống trên người, tức là khả năng lây bệnh cúm gà từ người sang người, và cũng đã biết đến căn bệnh AIDS mà trước đó chưa hề tồn tại có khả năng làm mất khả năng miễn dịch của con người, do siêu vi khuẩn HIV gây ra (mà người ta cho rằng môi trường sống HIV trước đây là loài khỉ). Các phát hiện trong ngành di truyền học cũng chứng minh mối liên hệ bà con giữa loài người và loài khỉ cũng như các loài động vật khác, đúng như Darwin đã từng dự đoán và bị bên nhà thờ phản bác mạnh mẽ. Cho đến hôm nay, tác phẩm “Nguồn gốc các loài” của ông đã trở thành nền tảng cho thuyết Tiến hóa được chấp nhận rộng rãi: các sinh vật cấp cao hơn đều có nguồn gốc từ các sinh vật cấp thấp hơn, thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên để có được sự tiến hóa, trong đó biến dị và di truyền phối hợp với nhau để tạo ra sự thích nghi với môi trường sống ngày càng tốt hơn cho sinh vật.
Bây giờ chúng ta hãy xem xét những luận điểm còn chưa được làm rõ của thuyết Tiến hóa, để đưa ra các phản biện khoa học, xem xét khả năng mở rộng thuyết này, và định hướng cho những nghiên cứu của chúng ta. Bằng sức mạnh của cộng đồng mạng, chúng ta sẽ xem xét học thuyết này dưới bất kỳ góc độ nào. Chúng ta có thể dùng triết học, vật lý học, sinh học, y học, kinh tế học, chính trị học, tâm lý học,… để làm cơ sở phân tích. Chúng ta cũng có thể lấy dẫn chứng từ văn học, nghệ thuật, thể thao, tôn giáo, các tập tục văn hóa, các hiện tượng xã hội,… để củng cố hoặc phản bác học thuyết. Đừng dửng dưng, đừng e ngại, hãy nói ra quan điểm của mình, chỉ cần chúng ta có tinh thần khoa học, tôn trọng cái đúng, ủng hộ trí tuệ tập thể, mong muốn liên kết cộng đồng tạo ra sức mạnh. Để mở đầu, người khởi xướng cuộc nghiên cứu này sẽ nêu lên 4 vấn đề cần phải xem xét sau đây.
Trong tác phẩm của mình, Darwin cho rằng bản năng bên trong của các loài cũng có sự tiến hóa giống như cấu tạo bên ngoài của chúng. Trong khi đó, các nhà sinh học hiện tại đều tập trung nghiên cứu sự tiến hóa của các loài sinh vật theo cấu tạo cơ thể của chúng, mà không chú trọng lắm vào các bản năng tập tính. Họ cho rằng, sau khi có những biến dị về cơ thể phù hợp với điều kiện môi trường, các bản năng mới cũng theo đó mà hình thành. Quan điểm đó có thể giải thích được tại sao một con cọp không thể ăn rau cỏ như một con bò, nhưng không thể giải thích được tại sao những con hải ly có thể xây đập giỏi, những con gà trống có thể gáy chính xác vào những thời gian xác định trong ngày, những con cá hồi phải bơi ngược dòng về nơi đầu nguồn để thực hiện việc sinh sản, những con bồ câu có thể bay về với tổ của nó bất chấp được mang đi đâu, những con chim di trú có thể bay về phương Nam theo lộ trình không đổi để tránh mùa đông phương Bắc. Cơ chế nào đã hình thành nên những tập tính của mỗi loài động vật? Làm sao để những tập tính đó có thể được di truyền qua nhiều thế hệ? Nên hiểu như thế nào về những năng lực có sẵn, bản năng? Bản năng được lưu giữ như thế nào trong các loài sinh vật? Có sự di truyền bản năng không? Làm sao để di truyền được bản năng? Bản năng có tác động đến việc hình thành cấu trúc thể chất hay không? Bản năng có chịu tác động của môi trường sống không? Bản năng có xảy ra quá trình chọn lọc tự nhiên không? Bản năng có tiến hóa không?
Một trong những điểm mà thuyết Tiến hóa thường bị tấn công là sự nghi ngờ quá trình chuyển hóa từ không thành có của sự sống. Những nghi ngờ này không phải là không có lý, khi mà Không sự sống và Có sự sống là hai trạng thái rất khác nhau của tự nhiên: sự sống là một thứ có trật tự, có trình tự, có bắt đầu, có kết thúc, có chương trình, có tấn công, có tự vệ, có đồng hóa, có dị hóa,… trong khi đó Không sự sống chỉ là một trạng thái hỗn độn không đầu không cuối. Như vậy, liệu có tồn tại một quy luật bao quát hơn, chứa đựng sự hợp lý của quá trình các vật liệu của sự sống tiến hóa thành sự sống đầu tiên?
Về khả năng hình thành nên giống loài mới, quá trình biến dị có thể tạo ra nhiều kiểu hình khác nhau mà vẫn đều thích nghi tốt với điều kiện môi trường. Vậy thì yếu tố nào đã làm cho cả cộng đồng loài đồng nhất với nhau trong một kiểu hình thích nghi chung? Có chăng xu hướng đưa ra lời giải tối ưu khi tự nhiên giải bài toán thích nghi của các loài? Cơ chế để một lời giải tối ưu như vậy (nếu có) vận hành là như thế nào?
Chọn lọc tự nhiên là một quá trình cho phép các loài sinh vật biến đổi để thích nghi hơn với môi trường, chứ không phải biến đổi để trở thành một dạng thức phát triển hơn, tiến bộ hơn. Vậy thì đâu là động lực để các loài tiến hóa ngày càng tinh xảo hơn, phức tạp hơn?