Hiển thị các bài đăng có nhãn hoàn cảnh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn hoàn cảnh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 27 tháng 5, 2009

Thuyết Tiến hóa rộng (cá thể người: trường hợp của Hà – hoàn cảnh)

Hoàn cảnh:
Quê ngoại của Hà ở Tiền Giang, còn quê nội thì Hà không có. Điều đó không có nghĩa ba Hà là người Sài Gòn gốc, mà đơn giản là Hà không có ba. Nguồn gen có nhiễm sắc thể giới tính Y mà Hà đang mang trong người là của một người đàn ông mà Hà ít khi được gặp và cũng không muốn gặp. Hà lớn lên bằng tình thương của má và của những người giang hồ cùng khổ ở chợ Cầu Muối. Bằng sức sống mãnh liệt của một người phụ nữ bị đàn ông bỏ rơi và bỏ quê chạy giặc lên Sài thành, má Hà đã làm đủ mọi nghề để đảm bảo sự sống sót của hai má con. Ấy vậy mà, không hiểu vì đâu, tuy bản thân là một người thất học, bà vẫn nỗ lực cho Hà theo học hết cấp 1, rồi đến cấp 2. Hà được sinh vài tháng sau ngày Sài Gòn giải phóng, nên tuổi thơ của Hà là thời kỳ bao cấp suy kiệt các nguồn lực kinh tế, hầu hết người lớn ở nội thành đều đặt niềm tin và hy vọng vào trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai, nên tính ra thế hệ 7x của Hà vẫn là một thế hệ sung sướng, ít nhất là về phương diện tình thương - chân lý Mẹ.

Là một đứa bé ngoan, lại có tư chất thông minh, năm học lớp 6, Hà được học hành và phát triển trong một tập thể những đứa trẻ con nhà nghèo đồng cảnh ngộ quanh chợ Cầu Muối. Tập thể đó còn được dìu dắt bởi cô chủ nhiệm có tâm và có tầm, cô Hoa, nên những khác biệt nho nhỏ còn lại giữa Hà và các bạn đã được xóa nhòa bằng những hành động tương trợ đầy tình thương và ấm áp tình người. Trong môi trường đó, Hà đã cảm thấy rất thoải mái và đã đạt được kết quả học tập nổi trội.
Vào đầu năm lớp 7, Hà cùng với các bạn tiềm năng khác trong toàn khối 6 năm trước được đưa vào diện lớp chọn, và từ đây, mặc dù vẫn được cô Hoa chủ nhiệm, nhưng Hà bắt đầu đối diện với những thử thách thật sự, những thử thách hoàn toàn làm thay đổi cuộc đời của Hà từ đó trở về sau. Lần đầu tiên, Hà phải xét lại sự tự tin thường trực của mình, vì phát hiện ra có khá nhiều người học giỏi hơn mình. Hà còn phát hiện ra nhiều sự thua thiệt khác của mình so với các bạn cùng lớp, về hoàn cảnh gia đình cũng như về điều kiện vật chất. Do đó, trong hai năm học lớp chọn ở trường cấp hai chợ Cầu Muối, Hà luôn có xu hướng sống tách biệt với các bạn cùng lớp của mình, và đương nhiên, thời điểm đầu năm lớp bảy là lúc Hà tự ti, tự ái và cô độc nhất. Là một người nhạy cảm và quan tâm đến từng học sinh của mình, cô Hoa đã nhận thấy tất cả những điều bất thường đó của Hà, và quyết tâm hỗ trợ đứa học trò nghèo đến cùng. Trong trách nhiệm của một giáo viên chủ nhiệm, trường hợp của Hà được cô chọn giải pháp bạn bè. Một cách khéo léo, cô đã phê phán thái độ tự cô lập của Hà trước cả lớp, và dùng trường hợp của Hà để khơi gợi sự đoàn kết tương trợ nhau giữa các học sinh trong tập thể lớp của cô. Tấm lòng và sự thông hiểu của cô đã nhanh chóng được cả lớp hưởng ứng. Từ đó trở đi, Hà có bạn mới để chơi, có quần áo mới để đến trường, không cần phải đóng các khoản tiền định kỳ mỗi tháng, không còn quá ngại ngùng khi cùng các bạn tham gia các sinh hoạt ngoại khóa của lớp hay trường. Tuy nhiên, sức ỳ của hoàn cảnh và quá khứ đã không cho phép Hà dễ dàng vượt thắng và đủ sức thay đổi số phận của mình. Ngoài buổi học, buổi còn lại, dưới trời nắng gắt, Hà vẫn phải chạy tới chạy lui trên nền chợ Cầu Muối và nền đường Nguyễn Thái Học sình lầy nhếch nhác để bán từng ca trà đá cho đủ hạng người đang mưu sinh tại đây. Dù muốn dù không, tất cả tài sản mà má con Hà có chỉ là một tấm phản vừa để ăn cơm, vừa để học bài và vừa để ngủ. Dù muốn dù không, nơi đặt tấm phản cũng chỉ là một cái hốc ẩm thấp, được che đậy tạm bợ và dột nát. Dù muốn dù không, má Hà vẫn phải vay nóng (với lãi suất cao) để buôn bán lặt vặt, kiếm sống qua ngày. Tất cả những điều đó không cho phép Hà có được cuộc sống vô tư hồn nhiên mà một đứa trẻ con bình thường đương nhiên phải có. Mỗi ngày mới đối với Hà là một cuộc đấu tranh mới, để được sống, được học, và được mơ ước đến một ngày mai tươi sáng.
Trong hoàn cảnh đó, cộng hưởng từ tình thương của cô Hoa, một số bạn học cùng lớp bắt đầu tìm hiểu hoàn cảnh của Hà, và cùng với Hà kết thành một nhóm bạn thân chí cốt. Duy là con trai thứ của một cán bộ vật tư và một cô hiệu trưởng trường cấp một, có một anh và một em trai. Ba mẹ của Nam Anh là kỹ sư tiếp quản Sài Gòn ngành nước và ngành điện, Nam Anh có một em gái. Huy có ba là cựu học sinh Petrus Ký và má là cựu học sinh Gia Long, có hai em trai. Vốn được ba má và các thầy cô ở trường cấp một Kết Đoàn dạy dỗ kỹ lưỡng về tình thương, Huy là người đầu tiên tiếp cận với Hà trong nỗ lực chứng minh thái độ tự cô lập của anh này là sai. Nam Anh là một đứa trẻ hiếu động, ham khám phá, dám nghĩ dám làm nên chơi với Hà và Huy, thấy có gì đó hay hay. Duy là một đứa trẻ có tình bằng hữu hào hiệp, biết chọn bạn và quý bạn, nên hiểu được nhóm bạn này là một nhóm đáng tham gia.

Phân tích ra thì thấy được như thế, chứ thực ra, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, bốn đứa con nít này tự tìm đến với nhau một cách rất tự nhiên, như là cơ duyên đã sắp sẵn tự bao giờ. Huy về kể với ba má về trường hợp khó khăn của Hà và lập tức được ba má đồng cảm ngay. Vốn cũng là những học sinh con nhà nghèo vươn lên học trường công trong chế độ trước, ba má bảo Huy tìm hiểu xem nhà Hà ở đâu, để má Huy tới thăm. Vậy là Huy hăm hở vô lớp hỏi Hà địa chỉ nhà, thì được trả lời là “nhà tao khó tìm lắm, mày tìm không ra đâu”. Huy đề nghị đi học về chung để biết nhà thì nhận được “nhà tao không có cái gì để chơi, mày tới để làm gì?”. Bí thế, Huy phải áp dụng cách của các điệp viên “Hồ sơ thần chết”, “Họng súng vô hình” hay là “Ván bài lật ngửa” để theo đuôi Hà tới nhà. Chỉ tới gần khu của Hà, Huy đã thấy sợ hãi vì sự lộn xộn của khung cảnh và sự dữ dằn trên khuôn mặt của người Cầu Muối. Khi Hà ngoặt vào ngõ hẹp để vào nhà thì Huy không dám vào theo vì sợ bị trấn lột cặp sách. Lúng túng không biết làm gì một lúc thì thấy Hà quay ra, với một thùng kem đeo trước ngực. Sau lần đó, Huy dẫn má đến thăm má Hà để tặng quà và đặt cơ sở đầu tiên cho tình bạn giữa hai đứa. Sau đó, một cách khéo léo và kiên trì, Huy đã dần dần được Hà kể cho biết thế nào là bán kem, bán trà đá, bán gạo, bán cơm, lột tỏi thuê và vay nóng lãi suất cao. Và những chuyện mà Hà những tưởng là đau buồn, đáng xấu hổ (hay ít nhất là tẻ nhạt, vô vị) đó đã thu hút sự chú ý của không chỉ Huy, mà còn của Nam Anh nữa. Vậy là Nam Anh rủ cả Hà và Huy về nhà chơi, cùng nhau cắm hai cực của ắc quy (bình điện) vào nước muối để xem phản ứng điện phân giải phóng Hi đrô và Ô xy. Rồi Nam Anh lại rủ đi mua bộ đồ thí nghiệm ở đường Trần Bình Trọng, mua hóa chất ở chợ Kim Biên về pha chế thử. Rồi Nam Anh lại rủ đi bơi ở Câu lạc bộ Lao động, đi đánh bóng bàn ở Câu lạc bộ Nguyễn Du. Duy đã tham gia một trong các cuộc phiêu lưu do Nam Anh khởi xướng và trở nên gắn bó với các bạn. Về phần mình, với điều kiện gia đình tương đối khá giả, lại là người đam mê khoa học viễn tưởng và đồ chơi công nghệ, Duy thường mang cho các bạn xem những món đồ điện tử nhỏ nhắn và thú vị (như ra đi ô nghe đài FM và AM kích thước bằng 3 ngón tay, ti vi chạy pin kích thước bằng bàn tay, máy nghe nhạc Sony Walkman,…). Duy lại còn rủ bạn về nhà để xem những bộ phim khoa học viễn tưởng kinh điển và giá trị như “Back To The Future”, “Jurassic Park”, “Star Trek”. Đến đầu năm lớp 9, trường cấp hai nằm ngay chợ Cầu Muối đó nhận được quyết định sẽ trở thành trường hệ B, một trường cấp một ở gần đó (có cơ sở vật chất tốt hơn) sẽ trở thành trường cấp hai hệ A, nhiều thầy cô giáo giỏi của trường cũ cũng sẽ được chuyển sang trường mới. Là những học trò giỏi, Nam Anh và Huy nhận được thông tin đó, nên đã nhanh chóng báo cho Hà và Duy ngay trong những ngày cuối hè trước khi bước vào năm học mới, để làm thủ tục chuyển trường kịp thời.
Sự việc chuyển trường đột ngột đã làm gắn bó thêm bốn đứa trẻ và định hình rõ hơn nhóm bạn. Đầu năm lớp chín, áp lực thi cuối cấp và chuyển cấp đã buộc các bạn Duy, Huy và Nam Anh phải đi học luyện thêm môn Toán với thầy hiệu phó trường. Riêng Hà thì không có tiền để chi phí cho khoản đầu tư đó. Sự thua kém và sự tự ái đã một lần nữa tách biệt Hà với các bạn mới, và thậm chí gây nên ác cảm với các thầy cô, nhất là thầy hiệu phó. Vậy là xảy ra tình trạng “thằng Hà thật là kiêu hãnh và khó ưa” và “thầy Hảo trù dập học sinh không học thêm”. Nhóm bạn phải nhờ đến sự can thiệp của cô Hoa, mặc dù cô không còn trực tiếp dạy nữa. Cô Hoa đã gặp thầy Hảo để kể hoàn cảnh của Hà cho thầy nghe, và thầy đã quyết định cho Hà học thêm miễn phí, để có thể theo kịp với lớp. Kỳ hè năm đó, Huy đề xuất, Nam Anh triển khai, Duy tài trợ, nhóm bốn người bạn lại bắt đầu một cuộc phiêu lưu mới, khám phá thế giới của máy tính và phần mềm. Bốn đứa đăng ký lớp Tin học Thiếu niên ở Nhà thiếu nhi Thành phố do công ty Scitec tổ chức và thuê máy thực hành thêm để làm quen với hệ điều hành MS-DOS, ngôn ngữ lập trình Pascal và các trò chơi trên máy tính. Huy và Nam Anh lại được chọn sinh hoạt trong nhóm năng khiếu và được tập tành viết các trò chơi nho nhỏ. Cũng cuối năm đó, Nam Anh thi đậu vào trường chuyên Lê Hồng Phong, Huy được chuyển thẳng vào PTTH Bùi Thị Xuân rồi thi đậu vào lớp chuyên khối A, Duy và Hà học ở PTTH Ernst Thälmann. Từ đây nhóm bốn người bạn không còn học chung, nhưng vẫn chia sẻ với nhau về cuộc sống và quan điểm.

Đối với Hà, ba năm cấp ba là thời gian tương đối dễ chịu. Trường Ten lơ man (Thälmann) gần nhà là một môi trường không quá ganh đua và áp lực, nên Hà cũng đỡ cảm thấy mặc cảm hơn. Thời gian này, chính quyền phường Cầu Ông Lãnh cũng ra sức truy quét tội phạm, nên phần lãi vay nóng của má Hà cũng đỡ nặng nề hơn. Những người giang hồ ở chợ Cầu Muối thấy Hà thân cô thế cô mà vẫn theo đuổi việc học và học giỏi, nên cũng ủng hộ tinh thần và bảo vệ Hà khỏi những cạm bẫy xì ke ma túy đang rộ lên khắp các địa bàn của dân nghèo thành thị. Thời gian này, trái lại, là thời gian khó khăn hơn cho ba người bạn còn lại. Ba Duy bị truy tố và kết án tù vì tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa, mẹ Duy phải gánh vác cả gia đình. Ba Nam Anh đi công tác ở nước Ý về một dự án của nước này hỗ trợ xây dựng thêm một nhà máy nước cho thành phố Hồ Chí Minh, nên bắt đầu mất lòng tin vào chế độ mà ông đang phục vụ và cũng bắt đầu xa rời vợ con. Thời kỳ Đổi Mới, với nhiều cơ hội mở ra khiến nhiều người khá lên nhanh chóng, cũng ảnh hưởng đến gia đình Huy, khiến sự chăm sóc gia đình của ba Huy không còn được má Huy đánh giá cao, và sự thụ động, kém bươn chải của ông trở thành một khuyết điểm lớn khó chấp nhận. Duy tìm niềm vui cuộc sống tập thể ở đội múa rối Nụ Cười, và bắt đầu tham gia vào thế giới của những người làm nghệ thuật trong thời buổi giao thời. Nam Anh thì việc học ở lớp chuyên Lý trường Lê Hồng Phong không đủ lấp kín thời gian, nên anh này hay dẫn đầu đám trẻ trong xóm tham gia miễn phí các hoạt động thể thao hay nghệ thuật được tổ chức trong thành phố, những thủ thuật như đi lậu qua ngã nhà vệ sinh hay kéo bung cửa nhà thi đấu được anh sử dụng không chút ngại ngùng để mở ra một thế giới mới cho đám trẻ con không có tiền mua vé. Lớp chuyên khối A là một môi trường mà Huy phải bơi theo (để không bị loại ra sau mỗi năm học), nhưng anh này cũng còn đủ thời gian để dành một phần đam mê của mình tiếp nhận và suy tư về các vấn đề xã hội. Vì hoàn cảnh ngày càng khác biệt và khắc nghiệt như thế, nên nhóm bốn người bạn cũng ít khi gặp nhau, ngay cả với Hà và Duy là những người tiếp tục học chung trường, và thậm chí có năm chung lớp. Tuy nhiên, mỗi năm hai lần, vào dịp Tết và 20/11, họ lại cùng nhau đến nhà cô Hoa để thăm viếng cô, và cùng cô trao đổi về đủ thứ đề tài (từ tâm tư, tình cảm, hoài bão đến trường lớp, xã hội, đất nước). Riêng có Huy là cố gắng giữ liên lạc với Hà nhiều hơn cả, Huy thường đến nhà Hà để thăm hỏi má Hà, động viên và cảnh báo Hà về tính khốc liệt của kỳ thi đại học sắp đến. Tuy nhiên, những nỗ lực đó lại không được Hà hiểu đúng mức, vì Hà cho rằng đâu đó trong hành động của Huy vẫn có động cơ khoe khoang và độc ác khi cố khơi gợi về sự thua thiệt của Hà, và làm cho Hà phải tiếp tục lo lắng.
Hà đâu có biết rằng Huy cũng rất lo lắng về mục tiêu đó, và đang muốn tìm một người bạn để cùng chia sẻ động viên nhau. Sau đó, Huy đã phải đi luyện thi môn Toán với thầy Quân từ năm lớp 11, để nhờ người thầy nghiêm khắc này thúc ép, động viên thêm, và vượt qua được các trở ngại tâm lý. Huy cũng giới thiệu lớp luyện thi đó cho Nam Anh theo học, còn Hà thì mãi cuối năm 12 mới theo luyện ở trung tâm Vĩnh Viễn. Riêng Duy thì do vào đời, làm ra đồng tiền khá sớm, nên không đặt nặng mục tiêu vào đại học. Kết quả của kỳ thi tuyển sinh năm 1994 là: Nam Anh vào khoa Máy tính của ĐH Bách Khoa, Huy vào ĐH Kinh tế, Hà vào ĐH Tài chính Kế toán, còn Duy thì đi làm.

Kết quả thi đại học đã làm Hà tin rằng chỉ có Nam Anh là còn ở đẳng cấp cao hơn, Hà đã đuổi kịp Huy, còn Duy thì đã bị qua mặt. Khát vọng thoát nghèo đã làm cho Hà rất hài lòng với kết quả đó, và nung nấu quyết tâm phấn đấu vươn cao hơn nữa. Vì thế, khi vào đại học, Hà đã chủ động mở rộng tối đa quan hệ quen biết, và còn kết thân với một anh bạn học là con của một quan chức cao cấp đương quyền của thành phố. Chính anh bạn học này là người đã hướng dẫn cho Hà sử dụng bộ công cụ văn phòng Microsoft Office, đã cùng đi học trung tâm để nâng cao trình độ tiếng Anh, và chuẩn bị tinh thần sẵn sàng để lao vào đời làm việc, kiếm tiền. Đến khi tốt nghiệp đại học, vì còn bỡ ngỡ nên Hà đã đi tìm việc theo chuyên ngành “Tài chính doanh nghiệp” mà mình đã theo học. Thế nhưng, nơi mà Hà thích thì họ không nhận, còn nơi nào nhận thì Hà lại sợ người ta gài sinh viên mới ra trường làm chốt thí. Một thời gian sau, đến khi bắt đầu hơi nản lòng, thì có người quen giới thiệu Hà đi làm hướng dẫn viên du lịch cho công ty Fiditour. Vậy là Hà đành “ngậm ngùi nhắm mắt đưa chân” bắt đầu công việc trái ngành. Nhưng không vì thế mà Hà không chuẩn bị chu đáo cho công việc đó, mà trái lại, với tiền lương có được từ các việc làm bán thời gian không chính thức trước đó, Hà đã học thêm về nghiệp vụ du lịch, cơ sở văn hóa và cả tiếng Nhật nữa.

Với sự chuẩn bị chu đáo như vậy, khi vào làm, Hà đã được công ty phân cho đi các tuyến outbound, tức chuyên dẫn khách Việt đi du lịch các nước khác. Hà vẫn không chịu dừng ở đó, vẫn muốn tìm cơ hội kiếm tiền thật nhanh và thật nhiều, nên cố gắng kiêm luôn cả công việc bán tua (tour, dịch vụ lữ hành), tìm kiếm khách hàng cần đi du lịch về cho công ty. Với yêu cầu tìm được thật nhiều khách, lần thứ hai (sau lần đầu ở trường đại học), Hà cố gắng vượt qua các hạn chế tâm lý, để tìm nhiều cách tiếp xúc, tạo quan hệ với thật nhiều người có nhu cầu và đủ tiền chi trả cho dịch vụ du lịch. Hà tập đi quán ba (bar, quán rượu), đi đánh banh (tennis, quần vợt), tổ chức họp mặt bạn cũ từ cấp hai cho tới đại học,… Để tạo bề ngoài cần thiết đi bán hàng, Hà cũng nghe theo các đàn anh dành dụm nhanh chóng một khoản tiền để mua một chiếc xe Trung Quốc mới. Vì có thân hình khá gầy ốm, Hà cũng tập uống sữa rồi uống bia để mau lên cân. Với sự cố gắng không mệt mỏi, Hà nhanh chóng kiếm được kha khá tiền cho bản thân, cũng như đóng góp nhiều lợi ích cho công ty. Vị trí trưởng nhóm mà Hà có được có thể làm ngạc nhiên nhiều người, ngay cả với các đồng nghiệp trong công ty, nhưng không thể gây bất ngờ cho nhóm bạn cấp hai, nhất là cô Hoa và Huy. Ở vị trí mới, với thu nhập cao hơn, Hà nghĩ đến việc tận dụng tối đa lợi thế được ra nước ngoài thường xuyên, bằng việc buôn bán cò con, mua hàng miễn thuế mà các nước đều ưu đãi cho khách du lịch, rồi xách tay về nước như là các mặt hàng phi mậu dịch, và bán lại để hưởng chênh lệch. Với cách làm đó, Hà đã bán xe Trung Quốc đổi được xe Nhật cho mình, mua ti vi cho má coi cải lương, lợp lại mái bằng tôn lạnh, và lót lại nền nhà bằng gạch men. Rồi cơ hội mới lại đến với Hà, công ty có chủ trương cổ phần hóa với mục tiêu “năm sau lên sàn”. Vị trí trưởng nhóm không những cho Hà cơ hội được mua trả góp cổ phần ưu đãi cấm chuyển nhượng, mà còn có tiêu chuẩn mua được kha khá cổ phần phổ thông dễ dàng chuyển nhượng. Vì biết được quy luật thông thường giá cổ phần chào bán nội bộ thấp hơn rất nhiều so với giá lên sàn lần đầu, để tận dụng triệt để cơ hội này, Hà quyết định nắm giữ số cổ phần phổ thông và tìm người thiếu thông tin để thuyết phục họ mua số cổ phần ưu đãi của mình, để có thêm một số tiền mua thêm cổ phần phổ thông. Vì phạm vi các mối quan hệ của Hà cũng còn hạn chế, người thiếu thông tin hơn Hà không nhiều, nên rốt cuộc Hà mời Nam Anh, Duy và Huy mua số cổ phần ưu đãi đó. Nam Anh và Duy không tham gia, không phải vì không thích kinh doanh, hay không muốn làm giàu, mà là vì “cái này mới quá, tao chưa nắm” hay “tao đang kẹt tiền bên nhà đất”. Chỉ có Huy là người theo dõi cổ phần hóa từ hồi làm đề tài tốt nghiệp, nên có quan tâm, nhưng khi biết được rủi ro đằng lưỡi mà người mua phải nắm (không được đứng tên chủ sở hữu), thì chẳng những không có giao dịch nào được thực hiện, mà tình bạn giữa Hà và Huy cũng bị sứt mẻ ít nhiều. Huy chẳng những buồn vì Hà chơi không đẹp, mà còn cảm thấy bị tổn thương khi đến phút cuối (sau khi Huy đã làm rõ các điểm mấu chốt) Hà vẫn lấp lửng theo kiểu “tùy mày thôi, vẫn có nhiều người khác sẵn sàng bỏ tiền ra mua, vì không có rủi ro nào hết”.
Thời điểm Hà chuẩn bị trở thành nhà đầu tư chứng khoán, Nam Anh đã thôi việc ở công ty phần mềm Silk Road, công ty vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và cùng với một số bạn “máy tính 94” xúc tiến thành lập nhóm phần mềm Flip Flop để có thể theo đuổi sự nghiệp phần mềm chuyên nghiệp. Duy trong thời gian đó đã hơi chán cuộc đời nghệ sĩ ngắn ngủi với những cuộc tình chóng vánh, đã phần nào định hình con đường chí thú làm ăn bằng cách làm việc trong lĩnh vực nhà hàng. Còn Huy thì lúc đó bị bệnh nặng sau khi tốt nghiệp đại học, rồi lướt qua một số công việc như Thu ngân, Cán bộ tín dụng. Đến khi Hà bắt đầu xoay được vòng vốn và mở rộng đầu tư sang các loại cổ phần khác (ngoài công ty cổ phần Fiditour, và ngoài cả ngành du lịch) thì Nam Anh đã kết thúc giấc mơ Flip Flop, lên đường đi Mỹ xuất khẩu lao động bằng chuyên ngành phần mềm cho điện thoại di động, Duy đã đạt được vị trí quản lý của câu lạc bộ karaoke Dân Ca, còn Huy thì chuyển sang làm cho công ty thương mại điện tử VietnamThink, đồng thời học bổ sung công nghệ lập trình Ấn Độ với Aptech.
Cho đến thời điểm hiện tại (tháng 05 năm 2009), tuy Fiditour vẫn chưa có trong danh sách niêm yết của Sở giao dịch chứng khoán Tp.HCM, nhưng với kết quả kinh doanh cực tốt cả về tỷ lệ tăng trưởng lẫn tỷ suất lợi nhuận, cổ phiếu của Fiditour vẫn đã và đang là mặt hàng được các nhà đầu tư săn lùng ráo riết trên thị trường OTC. Do đó, trước khi tình trạng chiến tranh do tổng thống Hoa Kỳ Bush chủ trì (tại I rắc, Cộng hòa Hồi giáo I ran, và Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên) nhồi giá dầu và giá vàng lên cao đồng thời đạp giá chứng khoán xuống thấp, trước khi các SIV gây ra cuộc "khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp" kéo theo cuộc "khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ năm 2007" và "khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008", Hà đã chính thức cảnh báo Huy là “Trong câu chuyện của tao không còn có con số trăm triệu, bây giờ là lúc tao nói về hàng tỷ. Mày phải cố gắng lên, không thì sẽ bị bỏ lại đằng sau đó”. Khi khủng hoảng diễn ra, chứng khoán Việt Nam mất khoảng 70% giá trị so với trước đó, và Hà cũng không phải là ngoại lệ, sau khi đã đổi được xe Nouvo, Hà đành phải gác lại các kế hoạch chi tiêu tiếp theo như xây nhà, cưới vợ. Suốt khoảng thời gian dài Hà gắn cuộc sống và công việc của mình với chứng khoán; Nam Anh vẫn kiên trì với công việc viết phần mềm cho điện thoại di động tại Mỹ, chỉ có thay đổi là chuyển từ hãng Samsung sang hãng LG; sau một thời gian đủ dài gắn bó với Dân Ca, Duy đã thôi việc để thành lập công ty bán hóa mỹ phẩm nhập khẩu, rồi chuyển sang kinh doanh phòng nét; Huy đã gắn bó với đam mê phân tích bộ máy quản lý kinh tế để tin học hóa thành các hệ thống phần mềm quản lý cho các doanh nghiệp, đã trải qua thêm các công ty DigiNet và VCCI, rồi thành chuyên viên tự do, và cùng với vợ rèn luyện khả năng kinh doanh bằng mô hình cửa hàng bán nước trái cây. Trong thời gian này, Nam Anh, Huy rồi Duy đã lần lượt lấy vợ, Nam Anh và Duy cũng nhanh chóng có con sau đám cưới. Huy thì chưa có con, nhưng so với Hà thì cũng còn sớm hơn một bước.

Thứ Hai, 24 tháng 11, 2008

Thuyết Tiến hóa rộng (cá thể người: trường hợp của Nguyên - hoàn cảnh)

Hoàn cảnh:
Ông cố (ba của ông nội) của Nguyên là ông Thi, người thuộc dòng dõi có thế lực do nhiều đời theo chúa Nguyễn vào Thừa Thiên khai hoang lập ấp. Mẹ của ông Thi là con gái của võ tướng, tính tình cương trực, có chí khí. Ông Thi là con trai thứ trong gia đình, không coi trọng việc học mà thích đi tìm cơ hội mới phát triển kinh tế ở phía nam, trong khi anh của ông có học hành đàng hoàng nên làm viên chức cho Tây. Ông Thi có nhiều con gái nhưng có duy nhất một người con trai đầu, tên là Mưu. Đúng như tên gọi, ông Mưu từ nhỏ đã tỏ ra là người thông minh, sáng dạ, có nhiều ý tưởng và sáng kiến cải tiến. Do đó, ông Mưu được bà nội và người bác thương quý và bỏ công chăm sóc dạy dỗ, trong khi các em gái của ông lại sống với ba má. Từ nhỏ, ông Mưu được bà Nội mình rèn cho tính can trường có dũng khí, biết yêu quê hương biết bảo vệ người cô thế, lại được người bác chăm lo việc học hành đến nơi đến chốn. Được học trường tây, lại được tham gia hướng đạo sinh của huynh trưởng Tạ Quang Bửu, lại được người bác kể cho nghe những chuyện bất công của nhà cầm quyền thực dân, ông Mưu dần có khuynh hướng dân tộc chống Pháp. Trong khi đó, hai vợ chồng ông Thi cùng với những người con gái lên Tây Nguyên tìm cơ hội làm giàu với cây cao su, nhưng thất bại, có lẽ do không quản lý được những người làm công cứng đầu, do không thể bóc lột đồng bào mình như người Pháp thực dân, và cũng do chính quyền Pháp đâu dễ gì để miếng lợi béo bở từ cây cao su rơi vào tay người An Nam bản địa. Ông bà đâm ra chán nản rồi say mê cờ bạc và gia cảnh dần tuột dốc.
Khi vô đoàn tụ với gia đình ở Sài Gòn, ông Mưu không đi làm cho chính quyền Pháp mà đi dạy ở các trường tư thục và viết báo. Tại đây, ông bắt đầu tham gia Việt Minh và bị mật thám Pháp bắt. Trong tù, với vốn tiếng Pháp có sẵn, cộng với sự thân thiện cùng khả năng mỹ thuật khéo léo, ông đã chiếm được cảm tình của những người lính Âu Phi canh gác trại giam. Có lần cùng với má vào thăm ba trong tù, con trai lớn của ông Mưu còn được ba cho sô cô la đem về ăn. Khi được Pháp thả do không khai thác được tin tức gì, ông được cách mạng phân công công tác trí vận (vận động những người trí thức) rồi binh vận (vận động những người Việt đi lính cho Tây, và cho các chế độ thân Mỹ) do có khả năng diễn giải tốt những quan điểm của cách mạng cho những người chưa hiểu cách mạng. Hòa bình lập lại, ông được phân công làm phó chủ tịch ủy ban quân quản quận nhì và trở thành cán bộ trung cấp của chế độ mới.
Bà nội của Nguyên tên là Tuyết, lớn lên trong một gia đình đông anh em, vốn đã di cư từ Huế vô Sài Gòn từ sớm, nên tuổi thơ bà Tuyết gắn liền với mảnh đất Sài Gòn. Có má là một người phụ nữ khắt khe trong giáo dục con cái, lại có các anh chị em hết mực thương yêu đùm bọc nhau, lại vốn bản tính hiền hậu, nên bà Tuyết đã trở thành một người phụ nữ nội thành Sài Gòn tiêu biểu trong thời chiến: vất vả mưu sinh để nuôi đàn con ăn học, và lo cho chồng hoạt động cách mạng bí mật. Tất cả các con của bà đều không được mang họ cha, mà phải mang họ mẹ và nhận được sự chăm sóc tận tình của bên ngoại. Thật không may cho bà, người con thứ ba, đứa con gái đầu tiên mất khi mới ba tuổi do bệnh bạch hầu, nhưng thật may cho bà (hay là do bởi công sức dạy dỗ của bà) hai người con trai đầu người thì chăm chỉ học hành, người thì tháo vát siêng năng, nên bà cũng đỡ vất vả. Nhưng mà guồng máy chiến tranh khổng lồ đã khởi động, cả hai bên đều có những thế lực quyết chí vận hành nó, mặc cho những người đứng đầu muốn đàm phán với nhau để có một giải pháp hòa bình cho dân tộc. Guồng máy đó đã nghiến lên lãnh đạo của hai bên, thì không có lý do gì mà nó không nghiến lên bà Tuyết và gia đình của bà. Năm 1960, bà bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người và không thể tiếp tục chăm lo cho cuộc sống của năm người con. Trong thời kỳ này, bất chấp nguy hiểm, ông Mưu liên tục về nhà để chu cấp cho gia đình và động viên các con học hành, cũng như chăm sóc chạy chữa cho bà Tuyết. Nhưng mà lực bất tòng tâm, ông Mưu không thể xóa đi được những ưu tư lo lắng cũng như cảm giác trách nhiệm nặng nề của hai người con đầu đối với má mình và các em. Người con trưởng của ông không thể tập trung học hành, nên không thể theo nổi cả ĐH Kiến trúc lẫn ĐH Khoa học, và anh đã đi sĩ quan trừ bị để có tiền lương chu cấp cho má và các em. Người con trai kế, sau khi tốt nghiệp tú tài, cũng theo anh đi hạ sĩ quan, và đã chết khi vừa nhập ngũ. Bệnh tình bà Tuyết trở nặng hơn khi biết tin mình mất đi đứa con trai tài hoa tháo vát của gia đình, nhưng bà vẫn gắng gượng sống để dạy dỗ người con gái còn lại, người con thứ tư, giỏi giang việc bếp núc để sau này thay bà chăm lo cho gia đình, cũng như chăm lo cho hai người con trai út vì sợ chúng thua thiệt với bạn bè cùng lứa. Rồi hòa bình cũng lập lại, nhưng sức khỏe đã cạn kiệt, bà đã ra đi ba năm sau đó, không kịp chứng kiến bất kỳ thành quả nào của hòa bình. Sau đó, chiến tranh lại lập tức tiếp diễn ở biên giới tây nam, hai người con trai nhỏ nhất của gia đình lại lên đường lao vào trận chiến, và người con trai út của bà, người con thứ sáu hiền lành thư sinh, vướng mìn của khơ me đỏ bỏ gia đình ra đi. Chung cuộc lại, gia đình bà có tám người thì bà và ba người con đã sớm ra đi, không được sống những ngày hòa bình mà gia đình bà vẫn hằng mong đợi. Chỉ còn lại ông Mưu và các người con thứ nhất, thứ tư và thứ năm.
Nguyên chính là đứa con lớn nhất của người con thứ năm của ông Mưu. Khi anh Năm tham gia chiến đấu đẩy chiến tranh ra xa biên giới, thì bị thương và phải vào nằm trong trạm xá quân y, và chính ở đây anh đã gặp mẹ của Nguyên.
Chị Năm là y tá, tình nguyện nhập ngũ và xung phong chiến đấu trong hoàn cảnh người dân cả nước hồ hởi phấn khởi với nền hòa bình mới xác lập và sự hòa hợp dân tộc sắp dựng xây. Mọi người trong thời điểm đó đều tha thiết muốn đóng góp sức mình để xây dựng một chế độ hoàn toàn mới, chấm dứt hoàn toàn những cái xấu xa, dở hơi, thối nát của những gì đã từng tồn tại trước đó. Chị Năm tin rằng nếu hòa mình vào cuộc sống mới, chị có thể quên đi những sự tổn thương lớn lao mà mẹ chị đã gây ra cho chị. Qua hình ảnh một người phụ nữ thả trôi số phận của mình do mẹ chị vẽ nên, chị biết rất rõ những gì từng tồn tại trước kia cần được thay đổi. Và chị đã tìm thấy được ở anh Năm một sự đồng cảm sâu sắc về nhiệt huyết của tuổi trẻ thời đại mới, có thể làm được mọi việc, dù là khó khăn trở ngại đến đâu. Thế là anh chị Năm đến với nhau bằng một tình yêu đôi lứa trong sáng và chân thành, được bao bọc bởi những tình cảm lớn lao, tươi đẹp và mới mẻ mà lần đầu tiên họ cảm nhận được.
Khi xuất ngũ, chị Năm trở thành con dâu ông Mưu và rồi anh chị Năm có Nguyên. Vốn thất vọng với người con đầu tuy học giỏi nhưng không thực hiện được mơ ước của ông (trở thành kiến trúc sư), ông Mưu đặt nhiều hy vọng vào người con trai còn lại là anh Năm vì anh có khiếu mỹ thuật, lại ham hiểu biết, thích học hỏi những điều mới lạ ở người khác rồi tự mình ứng dụng. Vì thế, sự kháu khỉnh dễ thương của Nguyên khi mới sinh (giống anh Năm) khiến ông rất thích và cho rằng: “tướng thằng này về sau có thể làm tới bộ trưởng”. Rồi Nguyên lớn dần lên trong bối cảnh những vị lãnh đạo tâm huyết như Nguyễn Văn Linh từng bước giải phóng nguồn lực trong dân và bắt tay xây dựng nền kinh tế phù hợp cho đất nước. Lúc đó anh chị Năm không thể cảm nhận được những cơ hội và thách thức mà sự tự do kinh tế (do công cuộc đổi mới khởi xướng) đặt ra gay gắt cho mỗi người dân, cũng giống như trước kia anh chị đã không nhận thức được rằng sự nhiệt tình và niềm tin không phải là tất cả những gì cần thiết để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Anh trở thành họa sĩ, còn chị Năm thì… trúng số độc đắc. Chị quyết định gửi phần lớn số tiền đó cho Nguyễn Văn Mười Hai, để hưởng lãi suất 12% và hưởng an nhàn trong cuộc sống.
Năm 1990, chị trở thành nạn nhân trực tiếp và anh là nạn nhân gián tiếp của nước hoa Thanh Hương. Anh chị trở thành nạn nhân của Thanh Hương là bởi vì cảm nhận rằng cuộc sống mới bắt đầu được xây dựng trước kia có vẻ như không thể vận hành được, rằng không có cơ hội cống hiến cho những người con cán bộ như anh chị nếu không đủ năng lực đi du học, hoặc không thể phơi mình nơi các công trình thủy lợi, hoặc không hì hục học ĐH trong nước được với cái bụng đói, hoặc không chấp nhận làm viên chức “sáng vác ô đi, chiều vác ô về”. Mối dây liên hệ ngày xưa đã kết nối hai anh chị bây giờ ngày càng lỏng lẻo. Và chuyện đã xảy ra, chị phát hiện anh có bồ nhí, chị cùng với gia đình tạo áp lực với anh để anh từ bỏ, nhưng những cố gắng đó chỉ khiến anh đi đến việc ly hôn nhanh hơn, bất chấp Nguyên đang còn nhỏ.
Từ đó, Nguyên phải sống trong cảnh ngày thường sống với ba với cô (Nguyên không gọi bằng chị của ba bằng bác) và ông nội, cuối tuần lại về với mẹ. Nguyên nhận được một sự giáo dục kép từ phía ông nội và mẹ, ở với ông nội thì “mày ngu giống mẹ mày”, ở với mẹ thì “mày cà chớn y như bên nội mày”. Ba Nguyên thì chỉ quan tâm đến việc làm sao để Nguyên không thiếu những gì mà ngày xưa ông ao ước. Ông không tạo áp lực về việc học đối với Nguyên, học được thì tốt không học được thì thôi, vì không muốn con mình mất đi tuổi thơ hồn nhiên như những đứa trẻ khác. Cô của Nguyên vì lập gia đình trễ, nên coi Nguyên như con đẻ, và cũng chăm sóc Nguyên theo cách của cô, nhưng cũng lo Nguyên bị thiệt thòi nên không la hay đánh mỗi khi Nguyên làm sai. Trong bối cảnh như vậy, lại có máu nghệ sĩ và lãng tử giống ba, nên Nguyên không thể tập trung học, mà thường tham gia quá đà vào các trò chơi. Có không ít lần Nguyên gây ồn ào giữa trưa, có gia đình hàng xóm ra mắng “trưa phải để người ta nghỉ ngơi chứ!”, thế là Nguyên quay lại chửi tay đôi với bà hàng xóm đáng tuổi bà mình. Có người thắc mắc với ông nội Nguyên là tại sao lại để Nguyên cư xử như vậy, thì ông bảo tại bà ấy dại, lớn tuổi mà đi dây với nó làm chi để bị nó chửi. Người ấy lại thắc mắc tại sao còn nhỏ không uốn nắn, lớn lên thì làm sao… thì ông lại bảo nó còn nhỏ, giảng nó không hiểu được đâu, lớn lên tự khắc nó nhận thức được.
Rồi một ngày, cuộc đời nghệ sĩ đã dun rủi cho ba Nguyên làm việc cho một tiệm thời trang và trở thành người thiết kế các mẫu hoa văn trang phục cho tiệm. Gặp trào lưu “ăn ngon mặc đẹp” sau thời kỳ bao cấp đói khổ, trong khi các mẫu thiết kế của anh Năm rất sáng tạo và phù hợp với nhu cầu của thị trường, nên tiệm thời trang đó đã phát triển rất nhanh chóng và được nhiều người biết đến. Anh Năm và cô chủ trẻ đã nên duyên vợ chồng và Nguyên có một người mẹ kế. Vốn lớn lên trong gia đình nhà giáo nên cô chủ trẻ quyết tâm không để mang tiếng người đời “mấy đời bánh đúc…” nên chăm sóc Nguyên khá chu đáo. Cô gần gũi trò chuyện và mua tặng Nguyên những thứ mà Nguyên thích, làm cho anh Năm khá hài lòng. Thế rồi cô lại cho Nguyên một đứa em. Trong niềm vui có thêm một đứa cháu, ông nội Nguyên nhìn em bé và lại dự đoán: “thằng này chắc phải làm tới thủ tướng chứ chẳng chơi”. Từ khi có “thủ tướng”, cô chủ trẻ không những không bớt quan tâm đến “bộ trưởng” mà trái lại còn quan tâm đặc biệt hơn, bởi vì cô muốn những tình cảm gia đình nơi con trai cô phát triển một cách bình thường. Theo tiến triển đi lên của tiệm thời trang, sự nổi tiếng trong nước và các cơ hội xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài đặt ra cho cô chủ trẻ áp lực phải mở rộng kinh doanh. Chính áp lực này đã làm cho cô và anh Năm trở nên mâu thuẫn với nhau về quan điểm. Cô mong muốn anh Năm ngoài công việc sáng tác còn phải giúp cô quản lý các hoạt động tại xưởng và quản lý doanh số cửa hàng, để cô có thời gian chuẩn bị cho sự mở rộng quy mô. Anh Năm thì cương quyết bảo vệ phẩm chất của người nghệ sĩ và nhất định không chịu gò mình vào công việc quản lý. Đến lúc này, hai bên mới nhận thấy được sự khác biệt với nhau cả về nhận thức kinh doanh lẫn chuẩn mực hôn nhân, và tình yêu phát sinh giữa hai người trước đó đã không đủ lớn để họ bù đắp cho nhau sự khác biệt, kết quả là anh Năm có sự đổ vỡ gia đình lần thứ hai. Còn Nguyên thì dần dần thôi giữ chức bộ trưởng và được trang bị thêm một số sự chỉ trích dành cho người mẹ của đứa em kế.
Cứ theo cách như vậy, người lớn sợ Nguyên tổn thương, nên hoặc là lên án nhau thông qua Nguyên, hoặc là không dám đụng đến Nguyên khi Nguyên sai, hoặc là chăm sóc kỹ lưỡng nhưng thiếu đầu tư cơ bản, chất Chí Phèo bắt đầu phát triển trong con người Nguyên hồi nào không hay. Nguyên học không hết lớp 11, được một người chú họ giới thiệu đi làm phục vụ phòng ở một khách sạn lớn của nước ngoài nhưng không làm được lâu do nghĩ rằng công việc không xứng đáng với năng lực của mình. Khi có lệnh gọi nhập ngũ thực hiện nghĩa vụ quân sự, được mọi người động viên, Nguyên noi theo gương cha mẹ khi xưa, lên đường làm nhiệm vụ ở Tây Ninh trong thời bình. Nhưng mà kỷ luật sắt đá của môi trường quân ngũ khiến Nguyên chịu đời không thấu, Nguyên đào ngũ và đối diện với một cú trượt dài trong cuộc đời khi phải sống trong tình trạng trốn chui trốn nhủi. Rồi may mắn một người con gái xuất hiện, làm mát dịu lại cái đầu nóng của Nguyên, và khuyên Nguyên quay lại đơn vị. Nguyên đồng ý, và ba Nguyên cậy mối quen biết đồng đội xưa kia để Nguyên không bị kỷ luật quá nặng nề. Trong tình yêu của người yêu, cuối cùng thì Nguyên cũng hoàn thành được thời gian tại ngũ.
Ngay ngày xuất ngũ, Nguyên được người anh họ đề nghị về làm quản lý cho cơ sở kinh doanh của anh, vì anh đang gặp khó khăn về nhân sự. Vốn phù hợp với sở trường thích ăn uống, nên Nguyên đã hào hứng tham gia ngay. Được sự động viên của anh này, và sự khuyến khích của cả gia đình, cũng như còn nếp của bộ đội, Nguyên đã vượt qua được khó khăn trong thời gian đầu để hoàn thành tốt công việc. Thế nhưng, khi công việc có những khó khăn mới, khi phải lần đầu tiên chịu sự trách mắng cho sai sót của mình từ phía người chị dâu họ, Nguyên đã bất mãn và gây sự với anh họ mình để có cớ ra làm riêng. Chất Chí Phèo lại một lần nữa phát triển, Nguyên từ bỏ người bạn gái đã giúp mình vượt qua giai đoạn khó khăn, để “quen” với người nhân viên tốt nhất của anh họ và rủ cô này về làm với mình. Nguyên còn rủ các nhân viên khác về làm với mình, và gặp gỡ khách hàng của anh họ để thuyết phục họ sử dụng sản phẩm của mình. Khi người anh họ trách Nguyên sao nỡ vô tình đối xử với anh như vậy, thì Nguyên nhắn tin chửi rủa người chị dâu bằng những lời lẽ thiếu giáo dục. Hiện giờ, Nguyên vẫn chưa thành công với công việc kinh doanh của mình…